phuongtien.gif

Sau khi dạy cách thức kiến tạo Tịnh độ nhân gian, Đức Phật giới thiệu cư sĩ Duy Ma Cật bệnh sắp chết trong phẩm này. Tại sao cư sĩ Duy Ma lại xuất hiện trong phẩm Phương tiện và phương tiện này mang ý nghĩa gì. Thông thường, chúng ta hay chạy tội bằng cách đổ thừa việc sai lầm của mình là phương tiện. Hoặc khi cần biện minh cho việc nói láo, chúng ta cũng cho đó là phương tiện. Phương tiện của Đức Phật không thể hiểu như vậy. Phương chỉ cho không gian, tiện là thời gian hay tiện nghi. Phương tiện là những gì chúng ta sắp xếp khác nhau, tùy theo hoàn cảnh và thời gian để đưa đến cứu cánh giải thoát. Khi Phật tại thế, Ngài tùy đối tượng, tùy thời, tùy chỗ, giảng pháp không đồng nhau. Các pháp sai biệt là pháp phương tiện.

Duy Ma Cật, một tên được dịch theo âm chữ Phạn, nếu dịch theo nghĩa Ngài còn có tên là Tịnh Danh. Duy Ma cư sĩ được xem là một phương tiện của Đức Phật thể hiện qua cuộc sống thật của con người trong xã hội và cũng nhằm mục tiêu chứng minh Bồ tát hạnh mà Đức Phật Thích Ca đã tu hành trong quá khứ và nay Duy Ma thể hiện Bồ tát hạnh trong hiện tại. Nói cách khác, Đức Phật lấy hiện tại để chứng minh quá khứ của Ngài.
Vấn đề phương tiện đặt ra khiến chúng ta nghĩ đến thế đối lập của nó là cứu cánh. Duy Ma hay Tịnh Danh cư sĩ trụ ở thế giới của Đức Phật Vô Động. Phật thì vô động và Bồ tát thì thanh tịnh. Hai hình ảnh này gợi cho hành giả hình dung một thế giới hoàn toàn an lành hay thế giới tu chứng của chư Phật và Bồ tát. Từ thế giới hoàn toàn trong sạch ở phương Đông, Duy Ma rời bỏ thế giới đó để hiện thân trên cuộc đời làm cư sĩ, hay từ không sinh tử mà xuất hiện làm người ở sinh tử. Như vậy cứu cánh của Ngài là thế giới Diệu Hỷ thanh tịnh của Đức Phật Vô Động và mang thân cư sĩ làm mọi việc ở thế gian được coi là phương tiện của Duy Ma.
Thế giới Diệu Hỷ của Đức Phật Vô Động gợi cho chúng ta ít nhiều suy nghĩ. Hỷ là lòng hành giả luôn hoan hỷ với mọi người, không buồn, không giận, không động. Tâm không động để làm chủ được bản thân, mới hưởng được niềm vui không lệ thuộc cuộc đời, bước vào thế giới Diệu Hỷ. An trú trong thế giới này, hành giả sẽ phát hiện được Phật tri kiến hay tạo được tự thọ dụng thân. Tự thọ dụng thân khác với tha thọ dụng thân. Tha thọ dụng thân chỉ cho thân tứ đại ngũ uẩn của con người. Muốn giữ cho thân tứ đại sống, chúng ta phải cung cấp cho nó liên tục mỗi ngày một số đồ ăn thức uống. Và ngũ uẩn là thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, chúng ta luôn tiếp xúc với cuộc đời, luôn suy nghĩ, nhận thức. Chỉ khi nào chúng ta chết, thì ngũ uẩn mới ngưng hoành hành.
Duy Ma hay Tịnh Danh sống với Đức Phật Vô Động đã lìa ngũ uẩn, vấn đề tiếp tế cho ngũ uẩn thân không còn. Nghĩa là vui buồn vinh nhục của cuộc đời không còn làm hoen ố bản tâm Ngài. Thiên nhiên, xã hội, hoàn cảnh..., nói chung, những gì bên ngoài không tác động Duy Ma và Ngài cũng không cần nương tựa nó để sống. Như vậy đối với Ngài, tha thọ dụng thân đã chấm dứt, Duy Ma chỉ sinh hoạt với tự thọ dụng thân là Phật tri kiến.
Ngược lại, phàm phu luôn sống với tha thọ dụng thân, hay mượn bên ngoài làm mình, rồi đem nó bao vây trói chặt tự thọ dụng thân, quên mất bản tâm. Chúng ta tu hành chỉ có cách duy nhất là phải chinh phục chính bản thân và tham vọng của mình, xóa sạch những gì đòi hỏi ràng buộc mình. Vì thế, Đức Phật đặt vấn đề căn bản là thiểu dục tri túc. Càng hạn chế ham muốn, giảm bớt đòi hỏi càng được giải thoát. Yêu cầu, tham vọng được diệt sạch, tất nhiên sự xung đột với tham vọng, với cuộc đời, với thiên nhiên không xảy ra. Chẳng những không xung đột, chúng ta còn hài hòa với tất cả để chứng Pháp thân.
Thoát ly được sự chi phối của bên ngoài, mới sống được với tự thọ dụng thân, sống với nguồn vui không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Hình ảnh tiêu biểu chính là cuộc sống của Đức Phật luôn an lạc mỉm cười với chúng sinh, trong lúc cuộc đời thật sự chẳng có gì vui. Kinh gọi thế giới này là Diệu Hỷ, thế giới của những tâm hồn không bị gió trần lay động.
Từ thế giới Diệu Hỷ vô hình, Duy Ma là Bồ tát lớn thương nhân gian sinh lại cuộc đời. Tuy mang thân người, nhưng Ngài không giống mọi người. Điều này phải chăng ngầm chỉ cho Đức Phật Thích Ca có thân người nhưng khác người. Khác ở phần bên trong Ngài có đầy đủ đại từ, đại bi, thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng, v.v... và phiền não không còn.
Sự khác biệt giữa thân tứ đại ngũ uẩn và chân thân gợi nhắc hành giả hiểu rõ hơn về phương tiện của Phật. Đức Phật đã giải thoát hoàn toàn nhưng thương nhân gian sinh lại cuộc đời, đó là phương tiện của Phật. Hoặc hiểu gần hơn, khi Đức Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng đạt đến trí tuệ tuyệt luân. Mọi loài không thể nào hiểu được, tiếp thu được thế giới tâm chứng này. Ngài muốn truyền đạt sở đắc cũng phải rời Bồ Đề Đạo Tràng xuống Lộc Uyển, tiếp cận chúng sinh.
Cũng vậy, Duy Ma ở thế giới Diệu Hỷ tịch tĩnh. Chúng sinh làm thế nào biết được Ngài và Ngài làm thế nào giáo hóa chúng sinh, nếu cứ an trụ trong Niết bàn tịch tĩnh. Thế giới thanh tịnh và thế giới sinh diệt cách ly nhau. Muốn giáo hóa chúng sinh Ta bà, Duy Ma phải khai phương tiện, hiện thân lại ở thế giới Ta bà.
Cư tài chi sĩ
Cư gia chi sĩ
Tại gia chí Phật đạo giả.
Đó là hình ảnh cư sĩ Duy Ma với tấm lòng chí đạo không hề thua kém giới xuất gia, hay đúng hơn không kém Phật. Duy Ma đã đạt bản tâm thanh tịnh và sống với thật tướng các pháp, nhưng Ngài hiện thân lại cuộc đời này, tùy người, tùy chỗ, mà Ngài thị hiện trong đủ các ngành nghề của xã hội, để từng bước dìu dắt mọi người tiến gần đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Trong 12 năm đầu, Duy Ma xuất hiện ở thành Tỳ Da Ly, chưa ai nghĩ đến Đức Phật và đạo Phật. Chính Duy Ma cũng không xác định Ngài là đệ tử Phật. Sự lặng thinh của Duy Ma về tư cách Phật tử của mình cũng là phương tiện của Ngài. Điều này cũng gợi cho chúng ta cân nhắc mỗi khi muốn nhân danh đệ tử Phật để làm gì.
Duy Ma dấu bặt tông tích của Ngài. Mọi người trong thành Tỳ Da Ly vẫn thấy Ngài như một người bạn thân của mình. Ý này ngầm chỉ các Bồ tát xuất hiện trên cuộc đời không bao giờ vỗ ngực xưng tên. Các Ngài âm thầm giúp đỡ mọi người thăng hoa và lặng lẽ ra đi, để lại dấu ấn sâu sắc, khiến người liên tưởng đến Phật, Bồ tát. Đây cũng là cách sống của Đức Phật Thích Ca trong 49 năm thuyết pháp giáo hóa ở cõi đời. Ngài sống bình dị, không phô trương biểu diễn như hàng ngoại đạo. Nhưng Ngài Niết bàn, để lại cho nhân loại một kho tàng Pháp bảo vô giá, mở ra cho loài người con đường sống bất tử.
Duy Ma nhận chân được rằng Ngài mang hình thức cư sĩ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển những nét sáng đẹp tràn đầy ý nghĩa của Phật đạo. Điều đó tốt hơn là Ngài khoác lên mình chiếc áo xuất gia, sẽ làm hạn chế việc giáo hóa chúng sinh của Ngài trên lộ trình vô ngã vị tha. Thật vậy, với khối óc và đôi tay, Duy Ma đóng góp nhiều việc lợi ích cho đời, thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp trong tâm tưởng mọi người. Đó là cái thấy như thật của Bồ tát, thấy việc gì thành tựu lợi ích chúng sinh, sẵn sàng xả thân thực hiện. Còn phương tiện hay hình thức thì đa dạng, tùy theo nhu cầu mà thay đổi. Đối với Bồ tát, hình thức cư sĩ, xuất gia, Thanh văn hay Bồ tát, thì bất cứ vai trò nào chẳng qua chỉ là lớp áo đổi thay thay đổi không dừng trên sân khấu cuộc đời. Trong tâm niệm các Ngài luôn mong mỏi đem lại an lạc giải thoát cho mọi người.
Duy Ma xuất hiện với tư cách cư sĩ nổi bật hơn xuất gia, để giới thiệu phương tiện của Ngài là trí tuệ và đạo đức. Ở trên cuộc đời, lời nói của người đạo đức mới có giá trị và người trí thức mới đủ khả năng để nói điều đúng hay chân lý. Duy Ma trọn vẹn hai tư cách trí thức và đạo đức, được mọi người kính trọng và Ngài vận dụng được mọi phương tiện một cách hoàn hảo.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cư sĩ muốn thành tựu công đức như Duy Ma phải ở trình độ nào. Ở đây cư sĩ Duy Ma thành Phật rồi, vì thương nhân gian mà sinh lại và thân cư sĩ là phương tiện của Duy Ma để trợ hóa Phật. Hay chúng ta có thể hiểu thêm nghĩa khác nữa, Duy Ma chính là hiện thân của Đức Phật Thích Ca. Thật vậy, hòa mình trong ba giới thượng lưu trí thức nòng cốt của xã hội và được kính nể như hàng lãnh đạo tài đức, Duy Ma đã thể hiện trọn vẹn tư chất trọng yếu của Đức Phật là trí tuệ. Dấn thân vào sống với dân nghèo làm người cha che chở, dạy dỗ nuôi nấng, cứu giúp họ, Duy Ma đóng trọn vẹn vai của Phật hiện hữu trên thế gian nhằm ban vui cứu khổ cho chúng sinh.
Nói chung, mọi tầng lớp xã hội trong thành Tỳ Da Ly đều xem Duy Ma là thầy. Ngài vận dụng tất cả phương tiện trên cuộc đời xây đắp cho xã hội phát triển an lạc. Trong 12 năm, Ngài hoàn thành xong hình ảnh của người con Phật với trí tuệ tuyệt vời và tình thương bao la. Từ giai cấp Bà La Môn, vua chúa, trưởng giả, cho đến cùng đinh đều ghi đậm nét cảm tình, lòng khâm phục đối với Ngài. Lúc ấy, Đức Phật và các đệ tử mới đến thành phố này. Phải chăng Duy Ma đã đóng vai trò chuẩn bị, sắp xếp bối cảnh thuận tiện cho Đức Phật xuất hiện.
 Ở dạng thể tánh, Duy Ma và Thích Ca tuy hai mà một. Trên mặt sinh diệt của cuộc đời, có Duy Ma; nhưng trên bản thể giải thoát trở thành Thích Ca. Mối liên hệ vô hình giữa Phật và Duy Ma mới là việc quan trọng. Duy Ma làm tất cả mọi việc nhân gian nhờ lực của Thích Ca Như Lai truyền đến. Lực Như Lai hay cứu cánh của Phật Thích Ca thể hiện thành những phương tiện của Ngài với sự hiện hữu của vô số cư sĩ gánh vác mọi việc cho Phật.
Ở thành Tỳ Da Ly, mọi người kính trọng Đức Phật qua hình ảnh cư sĩ Duy Ma có trí tuệ siêu việt và đạo đức thánh thiện. Bước chân vào đời, Duy Ma thực hiện được lợi lạc nào cho chúng sinh đều hồi hướng Phật đạo. Ngài vận dụng khéo léo tất cả pháp Phật dạy như sáu pháp ba la mật, bốn pháp nhiếp, bốn tâm vô lượng, 37 trợ đạo phẩm trong việc hành đạo ở thế gian.
Đức Phật thuyết pháp 49 năm cũng không ngoài những pháp này, một kho tàng Phật pháp vô tận mà Duy Ma ứng dụng một cách linh động và hữu hiệu vào cuộc sống thực tế. Ngài trở thành nhân vật trí thức gần gũi quần chúng, giải tỏa những khó khăn vật chất, tâm linh và thăng hoa cuộc sống cho họ. Không những lãnh đạo hàng vua chúa, ngoại đạo, thương gia, ngay cả đối với các Tỳ kheo, Duy Ma cũng thừa lệnh Phật chỉnh lý các Tỳ kheo lạc đường. Các Tỳ kheo quen sống theo lối mòn cũ được sự cung kính ở thành Xá Vệ, bước chân đến thành phố Tỳ Da Ly phát đạt. Nơi đó, dân chúng có trình độ hiểu biết rộng lớn, không dễ dãi sùng kính Sa môn như ở thành Xá Vệ. Họ liền chạm trán ngay với cư sĩ Duy Ma.
Duy Ma cho những nhát búa sấm sét làm các Tỳ kheo phải khiếp sợ cư sĩ. Đó cũng là phương tiện của Đức Phật nhằm gián tiếp dạy dỗ các Tỳ kheo sơ phát tâm nhiều tự mãn. Tâm lý của người được sống đầy đủ dễ dàng thường hay ỷ lại, bướng bỉnh, khó giáo hóa. Đức Phật mới dẫn các Tỳ kheo đến thành Tỳ Da Ly cho họ chạm trán với thực tế cuộc đời qua sự chất vấn của cư sĩ cự phách Duy Ma. Các Tỳ kheo chợt bừng tỉnh, nhận ra yếu điểm và mang tâm hồn thua cuộc đau khổ về trình với Đức Phật. Không có Duy Ma cho những bài học kinh nghiệm đích đáng ở đời, các Tỳ kheo vẫn tiếp tục nếp sống đóng khuôn, không chịu tiến thân.
Suốt quá trình hiện hữu ở cuộc đời, Duy Ma luôn mang lợi lạc cho mọi người. Sức sống mà Duy Ma vận dụng được ở đây là sức sống của chúng sinh. Nghĩa là con người còn tồn tại thì Phật và chư Bồ tát còn hiện hữu bên cạnh họ, một biểu tượng thế gian tướng thường trụ trong Duy Ma.
Khi Duy Ma thành tựu mọi việc tốt đẹp, sử dụng phương tiện một cách khéo léo xong, Ngài mới xóa các phương tiện này để giới thiệu một cái gì xa hơn mà mọi người chưa biết đến. Đó là chân thân khác với giả thân. Một lần nữa, Duy Ma lại sử dụng thêm phương tiện khác với những phương tiện trước. Ngài tuyên bố có bệnh. Bồ tát sử dụng phương tiện thân bệnh hay phương tiện chết để giáo hóa chúng sinh. Cũng vậy, Đức Phật hiện thân trên cuộc đời hay từ giã cuộc đời cũng đều là phương tiện. Vì cứu cánh của Ngài mang bản chất thường, lạc, ngã, tịnh, không có sinh tử, nhưng phương tiện hiện sinh tử. Đức Phật nói: “Những người đáng độ đã độ xong, những việc đáng làm đã làm xong”. Duy Ma cũng không đi ngoài lộ trình này. Những gì cần làm để hồi hướng Phật đạo, Ngài đã hoàn thành. Ngài là người đi trước đến thành Tỳ Da Ly để sắp xếp cho Đức Phật Thích Ca xuất hiện. Và Đức Phật Thích Ca là người đi trước ở Ta bà để sắp xếp cho bổn Phật hay Pháp thân Phật thuyết pháp.
Đức Phật Thích Ca thuyết pháp mãi ở Ta bà, chúng ta sẽ nhàm chán, nghe nhiều mà ít quan tâm vận dụng. Ngài vào Niết bàn để chúng ta lóng tai nghe bổn Phật thuyết pháp. Nói cách khác, Phật Niết bàn, chúng Tăng chới với, bắt buộc phải đối phó với mọi nghịch cảnh bằng cách tự nỗ lực phát huy trí tuệ. Tự giải quyết thì trí thân mới sáng thêm. Nhờ vậy, từ Phật Niết bàn đến nay, các danh Tăng hiện hữu khắp mọi nơi tu hành đắc đạo, tỏa hương cho đời. Các Ngài kiến giải kinh Đại thừa dưới mọi dạng thức, hợp thành Tam tạng giáo điển thật bao la và thật sâu sắc. Vì vậy, Niết bàn của Đức Phật vẫn là phương tiện.
Duy Ma nói vì chúng sinh bệnh, nên Ngài có bệnh, chúng sinh lành mạnh, Ngài hết bệnh. Rõ ràng bệnh của Ngài phát xuất từ tâm đại bi. Vì thật sự Ngài ở Niết bàn, nhưng thương chúng sinh bệnh ở nhân gian, mà xuất hiện trên cuộc đời. Có thân phải có bệnh và Duy Ma vận dụng phương tiện có bệnh để mọi người đến thăm Ngài. Thăm một người giàu có, sang trọng, nhiều uy tín đang bệnh, đối diện với cái chết. Bao nhiêu của cải, danh vọng, quyền lực đều sắp rũ sạch gợi lên cho mọi người ý tưởng kính trọng, thương mến, ham muốn. Lúc ấy, thời cơ mới đến để Duy Ma khai pháp. Nhất là lời nhắc nhở sau cùng của một người sắp chết thường lưu lại sâu đậm trong tâm hồn người nghe.
Duy Ma sử dụng phương tiện của Ngài là bệnh, nên pháp Ngài thuyết phải là pháp vô thường. Sắp chết nói vô thường, mọi người sẽ hiểu vô thường một cách sâu sắc hơn. Đó là bài pháp sống mà Ngài thể nghiệm và tác động cho họ ý thức được cái gì thường hằng vĩnh cửu và cái gì luôn thay đổi không thể tồn tại. Nói chung, phương tiện của Duy Ma tổng hợp được Tứ Thánh đế: Khổ của thế gian và Niết bàn của chư Phật. Duy Ma luận về pháp thế gian và xuất thế gian nhằm mục tiêu gợi cho mọi người ý thức về cuộc sống con người, tức khai tri kiến cho họ.
Duy Ma hỏi mọi người tới thăm thân tứ đại ngũ uẩn của Ngài hay thăm một cái gì khác. Nếu chỉ có tứ đại ngũ uẩn là thân thì ở đâu lại không có tứ đại ngũ uẩn mà phải đến nhà Ngài. Điểm này gợi ý ngoài thân tứ đại, còn có một cái gì đáng quý hơn. Thân ngũ uẩn của con người không có gì đáng thăm, chỉ do nhân duyên giả hợp mà thành. Người đời vì quá tham lam, nhiều ham muốn, trở thành mờ mắt. Họ cho thân tứ đại ngũ uẩn là thật và đến ngày nào không giữ được nữa thì lại càng khổ sở hơn. Duy Ma ví sự giả hợp của thân người như cây chuối lột hết bẹ, như làn chớp, như bọt nước, như cảnh chiêm bao, như tiếng vang, như mây nổi, như cái bóng, như rắn độc, như kẻ cướp oán thù, như xóm không người. Và cuối cùng, ai mang thân người cũng phải già, bệnh, chết, rồi thân tứ đại cũng trả về cho tứ đại.
Nếu mọi người đến thăm Duy Ma vì cảm mến đức hạnh, muốn thăm cốt lõi của Ngài, không phải thăm cái thân già bệnh, Ngài sẽ nói về cốt lõi đó. Cốt lõi quý báu đó là Pháp thân, Báo thân của Duy Ma, hay đạo đức và trí tuệ sáng suốt vận dụng được quy luật làm tốt cho đời, lợi ích cho người, tạo ấn tượng đẹp khi người nhớ nghĩ tới Ngài.
Báo thân và Pháp thân theo Duy Ma là chân thân đối lại với giả thân. Giả thân tứ đại tất nhiên có già bệnh chết. Duy Ma cho biết Ngài khác mọi người vì Ngài thành tựu được chân thân. Còn khôn dại ở cuộc đời chưa chắc ai hơn ai. Phần này Duy Ma từ bỏ đã lâu. Ngài chỉ sống với chân thân kết tinh bằng đạo đức và tri thức. Mọi người được Ngài giúp đỡ cứ ngỡ rằng giả thân giúp đỡ. Nhưng Duy Ma khẳng định chính đạo đức và tri thức của Ngài hay chân thân Ngài phổ cập, tác động đến mọi người, mới quan trọng. Giả thân tứ đại chẳng qua chỉ là phương tiện để chuyên chở đạo đức và tri thức mà thôi.
Duy Ma dùng phương tiện đó thuyết pháp gợi ý cho họ về chân thân bất tử của Ngài. Giờ đây, phương tiện giả thân này sắp phải bỏ, Ngài trở về với chân thân. Duy Ma thành tựu tư cách làm thầy thiên hạ, khi bệnh sắp chết, Ngài mới giới thiệu Đức Phật Thích Ca là tôn sư của Ngài đang ở vườn Yêm La. Điểm này tương tự như khi Đức Phật Thích Ca Niết bàn, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta còn Chánh pháp của Ngài để lại, cũng không khác gì như có Ngài bên cạnh vậy.
Duy Ma thuyết pháp xong, chúng hội đều thấy Pháp thân đáng quý, sanh thân là giả thân không đáng kể. Sanh thân thay đổi, nhưng Pháp thân thường hằng. Trên bước đường như pháp tu hành, mỗi lần Bồ tát hạnh tăng trưởng, Pháp thân của chúng ta được thăng hoa.
Qua phần trình bày trên, chúng ta nhận thấy Duy Ma sử dụng hai phương tiện chính yếu. Phương tiện thứ nhất là Duy Ma từ thế giới thanh tịnh Diệu Hỷ muốn giáo hóa chúng sinh Ta bà, phải xuất hiện trên cuộc đời mang thân tứ đại y như mọi người. Nhưng Ngài khác người ở điểm dấn thân vào đời vận dụng bốn pháp nhiếp để gần gũi, làm việc lợi ích cho mọi người, không mệt mỏi. Đến giai đoạn hai, Duy Ma dùng phương tiện bệnh để giảng về vô thường của giả thân và chỉ dạy mọi người Báo thân, Pháp thân vĩnh hằng. Duy Ma đã sử dụng phương tiện đúng lúc, đúng chỗ.
Kinh điển đã ghi rõ như vậy. Tuy nhiên, điều tôi muốn lưu ý quý vị cần suy nghĩ tại sao lại phải nói phương tiện này và phương tiện này được đề cập đến vào thời kỳ nào. Nói cách khác, trong hoàn cảnh sống của Tăng Ni như thế nào mà hình thành kinh Duy Ma. Chúng ta suy nghĩ và giải đáp cách nào cho phù hợp với khoa học lịch sử là vấn đề đặt ra.
Trong phần đầu đã xác định kinh Duy Ma thuộc hệ Phật giáo phát triển và được kiết tập sau Phật diệt độ vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Nếu chúng ta so sánh ảnh hưởng lực của Đức Phật và Thánh chúng với ảnh hưởng của Tăng đoàn thời kiết tập kinh Duy Ma quả là cách nhau một trời một vực. Đức Phật và Thánh chúng thể hiện mô hình sống thánh thiện rực rỡ. Trái lại, Tăng đoàn thời bộ phái phân hóa trầm trọng và bị xã hội ghét bỏ. Với thực tại thê thảm đó của Phật giáo đem đặt vô khung cảnh thành Tỳ Da Ly đang phát triển mạnh về kinh tế, tất nhiên không cần phải nói, thân phận của Tăng chúng trở nên rất mong manh.
Thật vậy, khi yêu cầu của xã hội là sản xuất, thì tu sĩ thoát ly, ngồi yên tiêu thụ dễ bị xã hội xếp vào lực lượng phi sản xuất. Chính vì sự tồn tại mong manh của Phật giáo trong giai đoạn này đã làm nảy sinh ý thức bung ra để đáp ứng yêu cầu xã hội lúc ấy. Đó là phương tiện sử dụng để đẩy tinh thần Duy Ma lên. Bấy giờ, giới xuất gia nhận chân rõ Phật giáo phải tồn tại trong cuộc đời, không phải cách ly đời. Đây là tư tưởng chính mà chúng ta bắt gặp trong kinh này và được hình thành bằng sự hiện diện của cư sĩ cự phách Duy Ma.
Đức Phật và Thánh chúng tu hành ở vườn Yêm La, nhưng ảnh hưởng lực tác động cả thành Tỳ Da Ly. Và ảnh hưởng đó được tiêu biểu qua hình ảnh cư sĩ Duy Ma. Duy Ma là Tịnh Danh ở thế giới của Đức Phật Vô Động hiện thân lại, thường sống trong lòng xã hội, tiếp xúc với mọi người và xây dựng làm đẹp cuộc đời. Hay đó chính là sự nhắc nhở của kinh Duy Ma cho người xuất gia cần phát triển phần tu chứng nội tâm. Và chỉ dùng bản tâm thanh tịnh đi vào đời, tác động cho Phật tử tại gia để họ trở thành phần tử ưu tú trong mọi giai cấp. Không phải chúng ta mang cả thân xác thầy tu vào đời để làm việc thế gian.
Đức Phật cũng quy định rõ người xuất gia không được tham gia chính trị, thương mại, sản xuất. Chúng ta dùng tâm thanh tịnh ảnh hưởng cho Phật tử tại gia làm thay. Họ là chuyên viên, là nhà giáo, nhà chính trị, nhà buôn, thợ thuyền,... Nói chung, hàng Phật tử tại gia thuộc các ngành nghề đóng góp lợi ích cho xã hội, đều ủng hộ đạo Phật, nhất định đạo pháp sẽ phát triển mạnh.
Chúng ta còn nhớ thời Phật tại thế, giới xuất gia và tại gia phần nhiều thuộc thành phần ưu tú trong xã hội. Người giàu có như Cấp Cô Độc hay quyền thế như vua Tần Bà Sa La, Ba Tư Nặc ủng hộ giới xuất gia trí thức như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, tạo thành thượng tầng xã hội Phật giáo. Nhưng Phật diệt độ, người tu khất thực xong, tìm rừng cây ẩn mình, không dính líu đến cuộc đời và người tại gia cũng không có ai được như Cấp Cô Độc hay Tần Bà Sa La, Ba Tư Nặc. Trong tư thế như vậy, Phật giáo có tồn tại chăng, cũng chỉ èo uột.
Vì vậy, ngọn gió Duy Ma thổi lên sự phục hưng con đường Thánh đạo, làm hồi sinh những người xả tục xuất gia, đẩy họ rời khỏi ốc đảo củi mục ở bên lề xã hội, giúp họ tiến bước đến thế giới huy hoàng tràn đầy sinh lực của bậc xuất trần thượng sĩ.
Vào đời hành đạo, Duy Ma đầy đủ tư cách giáo hóa chúng sinh, thành tựu ở những môi trường tương phản, ví như con rùa sống dưới nước cũng được mà lên bờ cũng giỏi. Nghĩa là Duy Ma đóng vai trò Bồ tát không trụ Niết bàn, không trước sinh tử. Ngài tự tại giải thoát thật sự, thể hiện tư chất Bồ tát vô sở đắc. Ngài hành đạo hòa hợp với chúng sinh, vẫn không đánh mất bản tánh cao thượng, luôn luôn là bậc mô phạm chỉ đạo trong nhân gian.
Trước kia, Duy Ma dìu dắt những người tham đắm sinh tử như quốc vương, vương tử, Bà la môn. Nhưng nay, Ngài giảng dạy Sa môn, những người thích trụ Niết bàn. Hai hạng người thế tục và Sa môn ví như mặt trời mặt trăng không bao giờ gặp nhau. Họ không ở chung được, nên khi thuyết pháp xong cho cư sĩ, Duy Ma dọn phòng trống tiếp Sa môn, vì Sa môn tu pháp Không. Chỗ trống này là tâm Không. Sa môn nhận thức sai lầm về pháp Không. Đối với họ, Không là không có gì. Duy Ma chỉnh lý tư tưởng ngoan Không này, chỉ cho họ nhận thức đúng đắn hơn. Không là không cố chấp việc làm của mình, không để tâm kẹt trong các pháp, dù là thiện pháp. Và cao hơn nữa, phía sau cái Không này có đầy đủ tất cả những gì tốt đẹp nhất, đó là Chân không diệu hữu.
KẾT LUẬN
Khi Bồ tát lãnh được tâm ấn và thể hiện việc làm kết hợp tâm họ với tâm Phật, mới thật sự tiến bước theo Bồ tát hạnh và nương theo giáo pháp Như Lai hành đạo, làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Dù khoác vào chiếc áo Tăng già hay cư sĩ, Bồ tát đều nhận lãnh ý Phật mà hội nhập vào đời, tự tại tới lui trong vòng quỹ đạo của Phật.
Bồ tát Duy Ma với trí tuệ tuyệt vời, đạo đức thánh thiện và việc làm cao cả, thể hiện trọn vẹn hình ảnh một Bồ tát thương nhân gian sinh lại cuộc đời này. Ngài là người thay Phật giáo hóa chúng sinh. Duy Ma xuất hiện ở thành Tỳ Da Ly theo phương tiện của Phật. Nói cách khác, Ngài là hiện thân của Đức Thích Ca Như Lai trên cuộc đời, hay Ngài là Tịnh Danh Bồ tát từ cảnh giới thuần tịnh bước vào thế giới Ta bà sai biệt, hoàn toàn an trú trong bản thể chơn như mà ra vào khắp chốn sinh tử hoàn toàn tự tại.
Khởi nguồn từ Tịnh Danh, Ngài dấn thân trên vạn nẻo luân hồi theo ý muốn của chư Phật mười phương. Duy Ma là ngọn hải đăng trí tuệ hòa hợp cùng nhịp điệu tâm linh của chúng ta, soi đường dẫn bước đưa chúng ta qua sông mê bể khổ, đến bờ giải thoát an lạc vĩnh cửu. 



HT. Thích Trí Quảng