Vấn đề diễn tả trong phẩm Phật Hương Tích thuộc thần thông biến hóa. Nếu chỉ hiểu theo tín ngưỡng, chúng ta khó chấp nhận thần thoại này. Tuy nhiên, điều chắc chắn rằng Phật giáo là đạo của trí tuệ, đạo đi ngược lại với thần quyền. Vì vậy, câu chuyện nêu lên trong phẩm này theo tôi hàm chứa ý nghĩa sâu xa bên trong buộc người nghe phải suy nghĩ. Và tôi xem phần chân lý mà Đức Phật đã thể nghiệm được mới thật sự quan trọng.
Trong phẩm trước, Bồ tát Văn Thù tán thán sự lặng thinh của Duy Ma là tuyệt diệu, gợi cho chúng ta ý tưởng vô tác diệu lực của Duy Ma. Tuy Ngài không làm, nhưng tác động đến muôn loài ở độ cao nhất, không còn dùng ngôn ngữ giảng giải được. Tuy nhiên, hàng Thanh văn đối trước sự yên lặng này lại khởi tâm chán nản. Lúc trước, an trụ trong pháp bất tư nghì giải thoát, thể nhập chân lý bất nhị của Bồ tát, các Ngài quên đi nhu cầu bức bách của thân tứ đại, quên đói. Nhưng nay không tiếp tục an trú trạng thái tịch tĩnh, rớt trở lại thực tế của con người bình thường, cảm thấy chán nản, thấy đói.
Xá Lợi Phất đại diện cho hàng Thanh văn khởi tâm nghĩ giờ ăn gần đến, các Bồ tát sẽ thọ thực nơi đâu. Ở đây, Xá Lợi Phất thị hiện chưa giải thoát để nhắc nhở những người xuất gia còn vướng mắc trong căn trần thức.
Duy Ma biết tâm niệm Xá Lợi Phất liền hỏi Ngài đến đây cầu pháp hay cầu thực. Điều này cảnh tỉnh người tu không được nghĩ đến thức ăn. Đối với người tu, ăn để sống, không phải sống để ăn. Nhưng theo tôi, chúng ta cần đặt lại vấn đề ăn là gì. Theo cái thấy biết bình thường, ăn là cho thức ăn vô miệng nhai và nuốt xuống bao tử. Tuy nhiên, quan sát kỹ hành động ăn, chúng ta thấy rõ nó là các pháp nằm trong vòng luân chuyển. Thật vậy, trong hành động ăn có diễn tiến từ vật này xuyên qua vật khác, để sinh ra vật mới, giống như ta đưa nguyên liệu vào máy và cho ra sản phẩm. Ăn cũng vậy, chúng ta đưa nguyên liệu thức ăn vào nhà máy cơ thể sẽ cho chúng ta sự sống. Như vậy, rõ ràng ăn là sự chuyển đổi.
Theo Thiền sư phân tích thân này không phải là Ta, mà là sự vật luân chuyển. Thức ăn và không khí ngày hôm nay thủ tiêu thức ăn và không khí ngày hôm qua. Thức ăn và không khí luôn luân chuyển, chúng ta nhận nó làm Ta, chẳng khác nào chụp mồi bắt bóng để đời đời kiếp kiếp ở trong ngục tù tam giới. Vì thế, hành giả đang ở pháp bất nhị thanh tịnh giải thoát, rớt trở lại thực tế nghĩ đến ăn, chấp nhận ăn là Ta, thì vô số tội lỗi sinh ra. Phẩm trước là Bất nhị pháp môn nhằm xác minh rằng vật không phải là Ta. Ta là chơn tánh giải thoát và từ chơn tánh giải thoát khởi niệm ăn, vấn đề mới đặt ra.
Đối với người xuất gia, đời sống tâm linh quan trọng và cần thiết hơn, còn sự vật mặc cho nó luân chuyển. Tâm vắng lặng như Duy Ma, dù vật có luân chuyển bên ngoài, thì ý niệm cũng thành không. Vì vậy khởi lên ý niệm ăn, liền rớt vô sinh diệt và Duy Ma lợi dụng cái ăn sinh diệt này để giải thích cho thấy người tu có cái ăn khác với phàm phu.
Hàng La hán không cần ăn như chúng ta. Nhưng chưa đắc quả, còn mang thân phàm, vấn đề ăn quan trọng, nó đè nặng chúng ta, không ăn không chịu được. Thuở bé tu hành, tôi cũng bị chuyện ăn làm khó dễ; vì chỉ ăn ngọ, nhưng suốt đêm bao tử dày vò mình, nó cồn cào, vượt qua được không đơn giản. Xá Lợi Phất không ở trong tâm trạng này, nhưng Ngài đại diện cho người chưa đắc đạo đặt vấn đề để chúng ta suy nghĩ.
Theo thông lệ phải đi khất thực. Khi nghe Đức Phật Thích Ca dạy Bồ tát Văn Thù đến thăm Duy Ma, các Thanh văn nghĩ hai thượng thủ gặp nhau chắc có pháp gì hay. Họ cùng đến nhà Duy Ma, quên mất việc khất thực, vì cầu pháp nên quên chuyện ăn. Nhưng đến nhà Duy Ma thấy trống không, chỉ có một cái giường nằm. Xá Lợi Phất khởi niệm không có gì ăn.
Theo Phật, mục tiêu chính của người tu là giải thoát, cởi bỏ những gì ràng buộc chúng ta. Những cái gần chúng ta nhất, dễ nắm bắt, dễ cởi bỏ là ăn, mặc, ở. Tuy thấy nó gắn liền với chúng ta mật thiết, nhưng thật sự từ bỏ nó không khó. Thọ, tưởng, hành, thức thuộc tâm, khi ẩn khi hiện, chúng ta khó điều chỉnh, khó bỏ hơn. Khi tu còn cảm thấy muốn ăn, thèm ăn, phải tự biết xấu hổ, vì còn ở mức thấp nhất trong pháp Phật. Vấn đề tầm thường nhất, dễ nhất chúng ta không vượt nổi, làm sao qua được những khó khăn khác. Duy Ma chỉnh Xá Lợi Phất tu giải thoát không được khởi niệm ăn. Nếu trụ pháp thanh tịnh, hành giả sẽ thâm nhập Thật báo trang nghiêm Tịnh độ có nhiều món để ăn. Kinh diễn tả rằng Duy Ma bảo Xá Lợi Phất nếu muốn ăn, hãy chờ giây lát sẽ có bữa ăn thượng diệu chưa từng có.
Theo tôi, "Muốn ăn có ăn" mà Duy Ma nói khiến chúng ta dễ hiểu lầm với cái muốn của thế gian. Ở đây vấn đề diễn dịch kinh điển gặp nhiều vướng mắc ngôn từ, nên diễn tả không trung thực lắm. Phải hiểu rằng "Không muốn" mới thâm nhập pháp bất nhị. Ý này nhằm diễn tả A la hán vào được pháp bất nhị, nhận được nhiều thức ăn thượng diệu. Đức Phật dạy đầu tiên chúng ta có Pháp hỷ thực. Món ăn chính của người tu là pháp, tinh thần chúng ta ăn pháp hay sống với pháp. Pháp luôn luôn sinh diệt, nên người tu quán pháp sinh diệt mà sống. Hành giả quán pháp sinh diệt, hiểu và vận dụng được pháp sinh diệt, không còn lệ thuộc nó, trở thành chủ nhân của các pháp. Đức Phật khác chúng ta ở điểm đó. Thực tế là Đức Phật ăn tất cả pháp giới, mà không phạm tội gì. Trong khi chúng ta chỉ khởi niệm ăn, đã thành tội. Đức Phật đứng ở lập trường giải thoát nuốt tất cả Pháp giới, nói cách khác, Ngài vận dụng được pháp giới, biến pháp giới thành pháp thân Ngài. Kinh diễn tả các loài sinh diệt đang sống trong thường trú pháp thân của Thích Ca Như Lai, là thức ăn của Như Lai hay một phần thân Như Lai.
Đối với người tu, cần nuôi lớn tinh thần bằng pháp. Và tiến sâu vào thiền định, sinh hoạt trong trạng thái nội tâm có món ăn thứ hai là thiền thực. Thiền là bản tâm thanh tịnh. Sự vật bên ngoài luôn biến đổi, nhưng tâm hành giả vẫn lắng yên, không biến đổi. Tâm no đủ, không đói, nhưng sự thật thân có đói. Bấy giờ, hành giả quán chiếu được thân là vật sinh diệt, thì đáp ứng yêu cầu sinh diệt để thân tứ đại tồn tại. Trong khi tâm luôn no đủ sáng suốt, quét sạch tham vọng của thức. Vô minh không còn, thì yêu cầu của cơ thể không nhiều như chúng ta tưởng.
Yêu cầu của cơ thể nhỏ, nếu bản tâm thanh tịnh. Điều này thể hiện rõ qua đời sống của các Thiền sư ngộ đạo. Các Ngài chỉ ăn đơn sơ mà vẫn sống khỏe. Thân không có khả năng đòi hỏi nữa, hành giả chỉ cung cấp những thứ cần thiết cho thân tồn tại. Biết cách cung cấp đúng chính xác, chu kỳ tồn tại của thân càng kéo dài hơn, nghĩa là tuổi thọ tăng và khỏe mạnh. Ngược lại, tham vọng của chúng ta quá lớn sẽ làm chu kỳ sinh diệt của thân rút ngắn lại. Chúng ta nghĩ rằng bồi dưỡng để thân khỏe hơn; nhưng cung cấp cho nó thật nhiều, để rồi nó thải ra những độc tố vật chất và độc tố tâm hồn, làm cho thân bệnh hoạn, tâm khủng hoảng. Chẳng hạn có những loại thuốc hóa chất dùng chữa bệnh, nhưng chữa được bệnh này lại gây ra bệnh khác nặng hơn. Thậm chí có những sản phẩm giúp con người sống tiện nghi hơn, đỡ phí sức, tăng tuổi thọ. Nhưng giải quyết việc này xong, lại gây ra khủng hoảng ô nhiễm môi trường đe dọa sức khỏe con người, làm phát sinh những bệnh mới nữa. Nói chung, tất cả tồn tại khổ đau khó giải quyết, vì văn minh của con người chính là vô minh.
Duy Ma tiêu biểu cho bản tâm thanh tịnh giải thoát mới có thiền thực. Ngài làm thí nghiệm bằng cách nhập định, tác động cho chúng hội nhìn thấy thế giới Chúng Hương, nghĩa là Ngài trắc nghiệm cho chúng ta thấy bản thân hành giả giải thoát và người chung quanh được giải thoát theo. Kinh diễn tả là đi ngược về phương trên, tìm thấy nước Chúng Hương. Nghĩa là tìm những gì cao đẹp có trước chúng ta, tìm thấy hằng hà sa chư Phật, mỗi vị Phật có cách sống, cách giáo hóa chúng sinh riêng. Hành giả góp nhặt những gì mà Đức Phật quá khứ làm để sống theo. Đó là món ăn thượng diệu.
Câu chuyện mở đầu này mang tính chất triết học, mượn chuyện thần thoại để diễn tả sự phát triển tri thức. Từ một người thường mở rộng tầm nhìn để thấy thế giới Chúng Hương và tạo điều kiện cho người khác cùng thấy. Đó là việc làm của Bồ tát Duy Ma thể hiện ý nghĩa mỗi người đứng ở hoàn cảnh riêng của chính mình mà đi lên, hội ngộ Đức Phật Thích Ca.
Kế đến, Duy Ma hiện ra một Bồ tát đầy đủ uy đức và Ngài dặn Bồ tát biến hóa này lên gặp Đức Phật Hương Tích xin cho Duy Ma một phần cơm thừa để làm Phật sự.
Vị hóa Bồ tát nếu hiểu theo ngày nay là chúng ta có trí khôn sẽ làm được tất cả, sử dụng trí khôn con người chuyển được vật chất thành phương tiện. Hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai, hành giả dùng bản tâm thanh tịnh kết hợp với sự vật dưới dạng bản thể để khởi lên hiện tượng. Pháp thân Bồ tát ở dạng thể tánh đến Ta bà, dùng tâm chuyển vật mà hình thành một sắc thân y như người Ta bà để sống với họ, gọi là ứng hóa thọ sanh thân.
Bồ tát biến hóa theo tia sáng bay đến nước Chúng Hương đảnh lễ Phật và nói đúng lời Duy Ma dặn, không khác. Theo giáo sư Nomura, một hóa Bồ tát do Duy Ma tập trung tư tưởng biến hóa ra và lập y lời Duy Ma khiến ông có cảm giác đó là một người máy robot do con người tạo nên để làm việc thế cho ta và chỉ có người máy, hay máy điện tử ghi nhận mới lập y lời được. Ở đây, Duy Ma tập trung tư tưởng vào Thiền định để khám phá ra một cái gì khả dĩ thay cho sức người, được diễn tả dưới hình thức Duy Ma đưa hóa Bồ tát lên nước Chúng Hương và làm cho chúng hội cùng thấy được nước Chúng Hương.
Bồ tát ở thế giới Chúng Hương nghe tên thế giới Ta bà khởi tâm muốn xuống xem thử Ta bà thế nào. Và Phật Hương Tích dặn các Ngài xuống Ta bà phải nhớ đừng hiện thân y như nước Chúng Hương và đừng tỏa mùi hương. Muốn tồn tại thích nghi với chúng sinh Ta bà, các Ngài cũng phải thu hình lại, mang thân tứ đại hữu hạn như người ở Ta bà. Hành Bồ tát đạo chúng ta phải ghi nhớ lời Đức Phật Hương Tích dạy cũng đồng nghĩa với lời Đức Thích Ca dạy chúng ta tu Đồng sự nhiếp trong Tứ nhiếp pháp. Bước chân giáo hóa đến nơi nào, chúng ta phải sống y như mọi người, hài hòa với họ; vì sống khác biệt dễ tạo thế đối lập, khó an toàn giải thoát.
Thế giới Ta bà được giới thiệu cho Bồ tát ở thế giới Chúng Hương và ngược lại cảnh giới Chúng Hương được mở rộng cho Bồ tát Ta bà. Điều này gợi cho chúng ta ý niệm mỗi Đức Phật hiện thân sinh hoạt trong một môi trường khác nhau, nên sự giáo hóa tất nhiên phải khác nhau. Hai chúng Bồ tát của Ta bà và Chúng Hương gặp gỡ nhau mới làm sáng tỏ được pháp môn bất nhị.
Khi hóa Bồ tát đã lãnh bát cơm xong cùng với 900 vạn Bồ tát thừa thần lực của Phật và Duy Ma trong khoảnh khắc về đến nhà Duy Ma. Lúc ấy Duy Ma Cật hóa ra 900 vạn tòa sư tử cho các Bồ tát ngồi.
Nếu hình dung nhà Duy Ma với một diện tích hữu hạn, làm thế nào dung chứa được trăm vạn tòa sư tử cho các Bồ tát. Điểm này đối với người có thế giới quan do tu chứng, dễ cảm nhận, hoặc người có đời sống tâm linh mới hiểu được cái không cùng tận, vô giới hạn. Ngược lại, đứng trên lãnh vực của đời sống hiện thực rất giới hạn, khó thâm nhập cảnh giới tâm chứng này. Thật vậy, thế giới tâm linh tuy nhỏ, nhưng nhiếp thu bao trọn được vật lớn. Cả vũ trụ nằm gọn trong đơn vị nhỏ nhất là tri thức, thì không còn gì mà nó không dung chứa được. Vì tri thức của chúng ta mở rộng đến đâu, muôn vật theo đó tự xuất hiện.
Mọi diễn biến do thần lực Bồ tát phát huy tạo thành cảnh giới bất tư nghì. Hiểu theo thời đại ngày nay, tương tự như tất cả hình ảnh của thành phố Hồ Chí Minh, hoặc cả trái đất, hay mặt trăng được thu gọn vào một cái vô hình qua vệ tinh viễn thông và chui gọn vào tivi dễ dàng. Tôi cảm nghĩ nó tương tự như thế giới bao la của chúng ta trong thiền định. Trong vệ tinh, chúng ta không biết thế nào, nhưng nó mang hình ảnh cả thế giới hay hành tinh đưa vào làn sóng điện nhỏ chuyển thẳng về đây cho chúng ta thấy. Và thế giới được khuếch đại rộng lớn tùy theo màn ảnh tivi, màn ảnh tivi của chúng ta 12 Inche, chúng ta có thế giới rộng 12 Inche, màn ảnh 21 Inche thế giới biến thành 21 Inche, v.v…
Tác động tinh thần của chúng ta cũng vậy và có phần linh hoạt gấp bội lần. Duy Ma thể hiện được lực tác động tinh thần này gọi là phát huy thần lực, tạo thành cảnh giới bất tư nghì, một cảnh giới chỉ hiện ra cho những vị Bồ tát nào đã thể nghiệm tâm chứng. Tùy trình độ tu chứng của Bồ tát mà cảnh giới chư Phật mười phương mở ra hay khép lại, giống như có tivi thì hình mới hiện lên vậy.
Sau khi mang chúng hội vào thế giới hiện thực Ta bà, Duy Ma hỏi các Bồ tát của thế giới Chúng Hương rằng Phật Hương Tích giáo hóa chúng sinh như thế nào. Các Ngài trả lời thật đơn giản rằng tâm những người ở thế giới Chúng Hương thuần thiện, không làm việc ác, không phạm sai lầm. Tùy theo độ cảm tâm giữa Bồ tát và Phật mà các Ngài đắc đạo, chỉ ngồi gốc cây nghe mùi hương tỏa ra cũng được giải thoát.
Câu trả lời của Bồ tát Hương Tích gợi nhắc chúng ta nhớ lại hình ảnh Đức Phật Thích Ca xưa kia thành đạo dưới cây Bồ đề. Bồ đề là trí giác, nghĩa là hành giả sống trong ánh sáng chân lý của Phật. An trú trong pháp Phật cảm nhận mùi hương lạ, hương đạo hạnh, hương trí tuệ, hương giải thoát của Ngài. Hành giả thưởng thức mùi hương đó hay sống với pháp Phật lâu ngày được giải thoát.
Đức Phật Hương Tích không cần giáo hóa bằng ngôn ngữ. Mọi người tự thăng hoa theo trình độ tu chứng của Bồ tát đạo. Nói cách khác, Đức Phật Thích Ca đã Niết bàn, không thuyết pháp, nhưng hành giả thâm nhập thiền định, tìm ra vô số ý nghĩa của Phật pháp thân thường trú. Bồ tát Chúng Hương học được với Phật pháp thân, cảm được lực tác động của pháp thân Phật mà giải thoát. Điểm này cũng dễ hiểu khi chúng ta thấy trên thế giới ngày nay tùy từng nơi có cách giáo dục khác nhau. Ở thế giới văn minh có hình thức giáo dưỡng theo văn minh. Ở nước lạc hậu, phương cách giáo dục tất nhiên có phần yếu kém.
Và Bồ tát của thế giới Chúng Hương hỏi lại Duy Ma ở Ta bà, Đức Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh như thế nào. Duy Ma trả lời ở Ta bà, đối với chúng sinh ngang ngược bướng bỉnh, Đức Phật Thích Ca phải nói rõ mọi tội lỗi và hình phạt quả báo tương ưng, nhằm ngăn chặn tâm ác của họ.
Các Bồ tát này cảm thấy kinh ngạc với các pháp môn không giải thoát mà các Ngài chưa hề nghe. Vì ở thế giới Chúng Hương thuần thiện, tên tội ác và địa ngục còn không có, huống là có tội ác thật. Đức Phật Hương Tích giáo hóa không giống Đức Phật Thích Ca. Ngài lặng thinh tác động cho chúng nhân thể nhập chân lý. Trong khi Đức Phật Thích Ca phải đi, phải nói, phải ngăn, nghĩa là dùng mọi phương cách để điều phục chúng Ta bà.
Từ điểm khác biệt này, Đức Phật Thích Ca khai mở cho chúng ta hình dung thế giới thánh thiện chỉ đạo cho thế giới xấu ác. Ngài thuyết minh rằng thế giới Ta bà có sáu đường sinh tử, không phải có một đường duy nhất tiến đến Phật đạo. Bồ tát ở nước Phật Hương Tích, pháp thân tiến triển lần, không cần trải qua sáu đường sinh tử như ở Ta bà.
Quá trình Đức Phật Thích Ca thuyết pháp trong tứ sanh lục đạo gợi cho chúng ta ý nghĩ tìm pháp thân thường trú trong cuộc sống thực tế hay từ sinh hoạt tầm thường này vượt lên thành cuộc sống phi thường là Phật vĩnh hằng bất tử và từ con người phi thường ấy trở lại giáo hóa chúng sinh là Phật ứng hóa thọ sanh thân.
Bồ tát Chúng Hương nghe Duy Ma nói chúng sinh thế giới Ta bà cang cường, các Ngài sợ muốn bỏ về liền, ngầm chỉ các vị La hán đắc đạo muốn nhập Niết bàn theo Phật. Vì Bồ tát Chúng Hương hay La hán sống trong pháp Phật cảm thấy an lành bao nhiêu, ra đời phiền lụy bấy nhiêu. Các vị này vội vàng từ giã Ta bà trở về trụ xứ gấp. Duy Ma dạy rằng các Ngài hãy ở lại đây, tuy khó nhưng tu một ngày ở đây bằng ở thế giới Chúng Hương tu vô số kiếp.
Theo Duy Ma, ở Ta bà mới có điều kiện cho hành giả tu sáu pháp ba la mật, đạt cứu cánh Vô thượng đẳng giác. Thật vậy, ở thế giới Chúng Hương, không có người nghèo dốt, dở để chúng ta hành pháp bố thí. Đối với pháp tu trì giới để độ phá giới, trên cuộc đời có bao nhiêu điều xấu cám dỗ, chúng ta mới luyện được tâm thanh tịnh, sống với nhiễm ô tội lỗi mà vẫn trong sạch. Về pháp tu tinh tấn, ở Ta bà có nhiều việc cho chúng ta làm; nếu thật tâm tu hành muốn tạo công đức, ai cũng có khả năng làm, dù dở. Lên Hương Tích, chúng ta có bằng ai mà làm. Pháp tu nhẫn nhục cũng vậy. Chúng sinh cang cường, chúng ta mới có cơ hội nhẫn nhục. Ở Hương Tích, chẳng ai gây, chẳng ai làm phiền cho chúng ta nhẫn.
Duy Ma đem cơm Hương Tích từ thế giới Chúng Hương về thế giới Ta bà. Theo tôi, Đức Phật Hương Tích không phải là một vị Phật nào khác lạ đối với chúng ta. Ngài chính là Đức Phật Thích Ca được hình thành dưới một dạng khác. Và thế giới của Đức Phật Hương Tích và thế giới Ta bà thông với nhau thành một cõi.
Thật vậy, cùng một Đức Phật nhưng sinh hoạt giáo hóa trong hai cảnh giới khác nhau, phải xuất hiện dưới hai dạng thân khác nhau. Đức Phật Hương Tích giáo hóa dưới dạng Pháp thân ở thế giới giải thoát Niết bàn tịch diệt phi diệt. Và một Đức Phật Thích Ca sinh hoạt với tư cách một sanh thân tứ đại của con người Ta bà hiện hữu trên nhân gian, mang lợi lạc an vui cho chúng hữu tình.
Hành trình của Duy Ma từ thế giới Ta bà bay bổng về thế giới Chúng Hương xin cơm, mở ra cho chúng ta quan sát hai thế giới riêng biệt. Ngài dẫn chúng ta từ thế giới Ta bà khổ đau đi vào thế giới không khổ đau. Và từ cảnh giới không khổ đau là cốt lõi của Duy Ma hội nhập trở lại đời sống khổ đau. Hay đó là hình ảnh Đức Phật Thích Ca kiên trì lặn lội giáo hóa dọc sông Hằng, tích lũy đầy đủ công đức trở thành Phật Hương Tích. Và từ chánh báo là Phật Hương Tích tạo thành y báo mang tên thế giới Chúng Hương, một thế giới chứa nhóm tất cả mùi hương và chỉ giáo hóa bằng mùi hương. Hương này thuộc năm phần tâm hương gồm giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương. Tìm được hương này, chúng ta hội ngộ Đức Phật Hương Tích, hay diện kiến được báo thân viên mãn của Đức Phật Thích Ca.
Năm phần tâm hương tiêu biểu cho sự thành tựu trên nhân gian mà Đức Phật Thích Ca tích lũy được. Và chính việc làm kiểu mẫu, lợi lạc cho chúng hữu tình còn lưu lại đến ngày nay, mới tạo thành thường trú pháp thân Phật tồn tại mãi với chúng sinh ở Ta bà.
Năm phần tâm hương mà Duy Ma đốt lên ở Ta bà hay cốt lõi Chánh pháp của Đức Phật mà Ngài rút ra mang cho chúng ta, giúp chúng ta thấy giáo pháp chúng ta học và cốt lõi của giáo pháp khác nhau. Pháp chúng ta học trên ngôn ngữ văn tự, trong khi cốt lõi lìa ngữ ngôn, gọi là Thiền ngữ. Người tu chấp ngôn ngữ, không bao giờ giải thoát. Vì thế, Thiền tông chủ trương tìm trực cảm giữa hành giả và Phật, truyền thừa qua tâm. Tâm hành giả thông với tâm Phật quá khứ, chuyển quá khứ và hiện tại nhập làm một. Kinh Duy Ma diễn tả bằng hình ảnh mang bát cơm từ Phật Hương Tích về Ta bà. Thâm nhập Thiền, cảm được Phật quá khứ, thấy được lẽ sống của Đức Phật. Và từ Thiền định mang tinh ba đó trở lại cuộc đời, trang trải cho mọi người, không bao giờ hết, hay cơm Hương Tích ăn không hết.
Quan sát cơm Phật, chúng ta thấy gì. Đức Phật không để lại cho đệ tử tài sản nào. Người đời thì để lại đủ thứ của cải, sự nghiệp cho con cháu. Phật Niết bàn như chim bay lưng trời không để lại dấu vết. Ngài bình thản rời thế gian, chẳng để lại chút gì, nhưng sự thật những gì Ngài đã ban tặng cho đời, quả thật là quá vĩ đại.
Người xuất gia theo Phật chỉ có một bát ba y. Bát Phật truyền cho đệ tử là cái bát không, không có cơm, khi thọ giới chúng ta nhận cái bát không. Nhưng từ thời Phật đến nay, trải qua mấy ngàn năm, không có vị Tăng nào đói. Rõ ràng chúng ta thấy cơm Phật nhằm chỉ cho cốt tủy của giáo pháp Phật. Chư Tăng theo đúng cốt tủy Phật dạy, tu hành phát tâm Đại thừa thì một người ăn, vô số người ăn cho đến nhiều thế hệ về sau ăn cũng không hết. Tuy nhiên, thực tế có những nhà sư đói rách, chúng ta cần xét xem tại sao như vậy. Theo Duy Ma, vì chưa phát tâm Đại thừa nên ăn cơm Phật vô, bụng bị chướng lên. Nghĩa là mặc áo Phật, mang hình tướng đệ tử Phật, nhưng đức hạnh và trí tuệ không giống Phật, thì sớm muộn gì họ cũng tự chết.
Đạo hạnh của người tu theo công phu miên mật tự lớn dần, trong kinh diễn tả rằng ăn cơm Hương Tích lỗ chân lông có mùi hương. Thật vậy, suy nghĩ, việc làm của chúng ta đúng với cốt lõi của Phật dạy là vấn đề quan trọng của người xuất gia. Nếu không thâm nhập tinh ba Phật pháp, ăn cơm này, chúng ta khổ, vì bị xã hội gán cho tiếng ăn bám.
Ngoài bát của Phật, người xuất gia còn có y là mảnh vải vá. Nhưng từ thời Phật tại thế đến nay, có bao nhiêu người tu chân chánh cũng không bao giờ thiếu y. Thiếu vì không phát tâm Đại thừa, không làm đúng di chúc Phật, không đến với Phật xin cơm ăn. Chỉ ăn cơm trần thế lâu ngày thành lú lẫn. Thiền tông khơi dậy ý này để chúng ta tỏa rộng sức sống đạo pháp trên cuộc đời.
Cơm dư của Phật Hương Tích, Duy Ma sai hóa Bồ tát xin về cho đại chúng ăn vẫn không hết. Phật Hương Tích tiêu biểu cho pháp thân Phật Thích Ca. Năm phần Pháp thân hay tất cả những việc làm thánh thiện của Đức Phật trên cuộc đời và tam tạng kinh điển lưu truyền tiêu biểu cho cơm thừa.
KẾT LUẬN
Cơm Hương Tích đượm mùi thiền vị, hay bản tâm thanh tịnh mới thể nhập được thiền vị. Duy Ma là mẫu người thể hiện trọn vẹn bản tâm thanh tịnh, chỉ có Duy Ma mới lấy được cơm Hương Tích. Cơm này chứa pháp vị lạ thường. Một người ăn no rồi cho người khác ăn cũng no và phát triển pháp thân họ. Có bao nhiêu người ăn một bát cơm cũng không hết. Điển hình như Duy Ma tận hưởng được cơm thiền, tu đắc đạo và tỏa ra ảnh hưởng cho đại chúng ở thành Tỳ Da Ly tiếp nhận đều đạt giải thoát.
Thực tế cho thấy từ khi Phật Niết bàn, giáo pháp Ngài để lại được từng thế hệ tiếp thu. Mọi người thăng hoa, giải thoát, ra khỏi nhà lửa sinh tử mà mỗi ngày bát cơm Hương Tích không bị vơi sụt. Bát cơm ấy lại càng lớn rộng thêm, luôn luôn cung cấp đầy đủ cho người cầu đạo. Riêng tôi, trên bước đường hành đạo, tuy gặp thật nhiều chông gai khó khăn, vẫn an lành nhờ hưởng chút hương thừa của Đức Phật, ân triêm pháp nhũ làm chất đề hồ tươi nhuận cho giới thân huệ mạng của mình. Đó là phần cảm nhận của tôi. Còn mỗi người tùy theo sự tâm chứng riêng, tiến thẳng lên thế giới Chúng Hương. Quý vị tự lấy hương công đức về trang nghiêm thân tâm, tinh tấn dũng mãnh bước theo con đường của Đức Phật đi, được giải thoát giác ngộ và làm lợi ích cho chúng hữu tình.
HT Thích Trí Quảng